THƯƠNG NHỚ HÀM NGHI
NGUYỄN XUÂN CHIẾN
1. Mở đầu
Thuở xưa tu nghiệp dở dang
Kiếp nay giọt đắng bàng hoàng đôi môi !
Thuở xưa lãng đãng rong chơi,
Kiếp nay luân lạc vào nơi cung đình !
Đế vương sao quá tội tình ?
Tấm thân vong quốc lênh đênh cõi ngoài
Sống thì phiêu dạt cuối trời
Thác thì gởi gắm di hài xứ xa !
Ai cứ bảo làm vua thì sướng ?
Tôi thấy ngài vất vưởng một đời
Khổ vì yêu nước thương người
Khổ vì yêu cả giống nòi Việt Nam
Khổ vì không chịu làm nô lệ
Chẳng cam làm hoàng đế bù nhìn
Khi mà trăm họ ngả nghiêng
Trẫm đây há sống êm đềm đặng chăng ?
2. Binh biến Ất Dậu -1885.
Vua Hàm Nghi sinh nhằm Nguyễn mạt
Khi giặc tây thiết lập gòng kềm
Hiếp vua, chiếm đất, lấn quyền
Sĩ phu nuốt hận, dân tình cắn răng !
Mười lăm tuổi ngai vàng loạng quạng
Chàng thiếu niên miễn cưỡng đăng quang
Chủ hoà, chủ chiến ngổn ngang
Một cơn binh lửa điêu tàn giang sơn !
Tôn Thất Thuyết chủ trương “quyết chiến “,
Khi nước ta sút kém lương tiền
Quan tham, binh yếu, tướng hèn
Cầu may chân cứng đá mềm dễ sao ?
Vũ khí là gươm đao ngắn mỏng
Khó đương đầu súng ống tối tân
Họ Tôn liều lĩnh vô ngần
Chỉ duy non nớt một tầm nhìn thôi !
Kém thực lực, thiếu người thích ứng
Tôn lại chuyên độc đoán, độc tài
Khiến vua phải chịu dạn dày
Khiến dân hoảng hốt, loay hoay nhọc nhằn
Đêm hăm hai, tháng năm, Ất Dậu
Quân triều đình đánh úp Toà Khâm
Tấn công Mang cá ầm ầm
Giặc Tây phòng bị âm thầm, chẳng lơi !
Đại bác ta rã rời, lúng túng
Rơi xuống sông, chẳng trúng mục tiêu
Giặc Tây phản kích ngặt nghèo
Quân ta dẫu chết cũng liều chống ngăn
Tôn Thất Thuyết biết rằng thất sách
Cùng ông Tường tìm cách rút lui
Quan thì cúi mặt ngậm ngùi
Còn lưa sĩ tốt chạy dài chịu thua
Thuyết vội vã mang vua di tản
Vượt qua sông Kẻ vạn bôn đào
Ông hoàng, bà Chúa xôn xao,
Không quen lội bộ, té nhào nằm lăn
Qua địa phận của làng La Chữ
Hôm sau, vua tạm trú Hành cung
Con đường kháng chiến gian truân
Người đi kẻ ở buộc lòng tách hai.
Một đoàn người chẳng nài gian khổ
Quyết tâm đi Tân Sở xa xôi
Một đoàn xa giá trở lui
Cùng hoàng thái hậu quy hồi đế đô.
3. Thất thủ kinh đô
Dân thành nội sững sờ tỉnh ngủ
Nửa khuya nghe súng nổ ầm ầm
Tức thì, giặc Pháp đổ sang
Xông vào Thượng Tứ, nghênh ngang Tam Toà!
Kẻ hoảng hốt, kêu la, khóc ngất
Người run run, tháo chạy lung tung
Đêm hôm khuya khoắt mịt mùng
Tới lui lộn nẻo, lạc đường trơ vơ !
Bọn lính Tây bắn bừa hàng loạt
Chẳng nương tay, tàn sát dã man
Máu me dàn dụa tràn lan
Xã Tắc, Hậu Bổ, Anh Danh, Hàng Đường,
Lính gan góc, cang cường lắm nỗi
Nhưng quân khu , khí giới quá tồi,
Nản lòng chẳng biết réo ai
Than ôi thánh chúa , hởi ôi cửu trùng !
Mới bữa trước, oai phong lừng lẫy
Sao chừ đây, rũ rượi xác xơ
Đành thôi! Cởi giáp cuốn cờ
Theo dân chạy loạn , bơ phờ tóc tai !
Tám giờ sáng, giặc Tây đại thắng,
Cờ tam tài bẵng hẵng kỳ đài
Những người yêu nước xót thay
Tự nhiên giọt lệ u hoài rơi mau…!
Quan lớn bé cắm đầu tháo chạy,
Đạn vèo vèo, nhà cháy rực hừng,
Lính Tây phóng lửa tưng bừng
Bộ Binh, Bộ Lại hoàn toàn bị thiêu…
Dân xớ rớ, buồn thiu dã dượi
Tái mặt mày, bối rối, hụt hơi
Tìm nơi ẩn nấp kịp thời
Chỉ mong thoát khỏi nạn tai hiểm nghèo
Biết kêu ai, ai kêu mà cứu ?
Mọi người đều lo sợ thất thần !
Ai ai mong giữ lấy thân,
Pháo rơi đạn lạc chậm chân được nào ?
Vùng Thừa Thiên lao xao, hỗn loạn
Chen chúc nhau, dẫm đạp lên nhau
Trôi sông, nước cuốn, gãy cầu
Chạy đâu ? Đâu biết nơi nao an toàn ?
Nhưng cứ chạy, chạy càn, chạy suốt
Bao xác người chồng chất lô nhô !
Trong cơn bế tắc hồ đồ,
Có ai tỉnh táo vượt qua nguy nàn ?
Lịch sử ghi một trang bi thảm
Đọc mà thương, rung cảm, xót xa !
Kinh đô thất thủ hăm ba,
Tháng năm Ất Dậu, người ta chết nhiều…
Người chết bụi: tong teo da thịt
Người chết đường: xúm xít ruồi bu
Trẻ con lăn lộn co ro
Dân ta chồng chất hận thù căm gan.
Cuộc binh biến vô vàn khắc nghiệt
Dân Huế đô thảm thiết hình hài
Tai bay vạ gió rạc rài
Những người sống sót hao gầy xác xơ !
Ai quờ quạng, thất thơ, thất thểu ?
Như âm hồn cháy miễu đi hoang ?
Xác ai lệ chảy nhì nhằng ?
Ngậm câm như tượng làm bằng gỗ mun ?
Xác ai ngậm dưới bùn tanh tưởi ?
Rên hừ hừ, chới với đôi tay !
Xác ai chim rỉa mấy ngày !
Vẫn còn há miệng, như còn hồi sinh ?
Bao người thân hoảng kinh tìm kiếm
Lật xác lên : tím lịm bầy hầy
Anh em chú bác tôi đây…
Cùng quê cùng xứ, là người trên dinh!
4. Lên chiến khu và hịch Cần Vương:
Cha con thuyết thân chinh hộ giá
Đưa vua lên Tân Sở mịt mùng
Từ lâu chuẩn bị kho lương
Để làm căn cứ phục hưng cơ đồ.
Vua thảo tờ chiếu thư kể tội :
Bọn giặc tây gian dối, hung hăng
Tay cầm khí giới xâm lăng
Miệng hô khai hoá cho dân Lạc Hồng!
Máu đã chảy ròng ròng một cõi
Đầu đã rơi khắp lối chơi vơi
Nhân dân kêu khóc thấu trời
Đồng bào cả nước bời bời căm gan!
Nguyễn Văn Tường tan hoang dũng khí
Đầu hang tây, quỵ luỵ triều đình
Cốt sao giữ tính mạng mình
Đành tâm chối bỏ ân tình vua tôi!
Vua truyền hịch gởi người cả nước
Gọi sĩ phu, trí thức, văn thân
Từ quan cho đến nhân dân
Niềm đau vong quốc xin đừng dửng dưng!
Vua đã tới Ấu Sơn hiểm địa
Cùng quan binh lập kế trường kỳ
Cho dù trăm vạn gian nguy
Hẹn ngày chiến thắng, quyết đi đến cùng!
Các sĩ phu hãy đồng ra sức
Tất cả vì tổ quốc chông chênh
Thân hào nộ khí xung thiên
Tầm vông vạt nhọn xông lên diệt thù!
Hịch cần Vương ban ra , lập tức
Được toàn dân hưởng ứng liền ngay
Kẻ thì quyên góp tiền tài
Người thì dâng hết sức trai, theo về!
Ở Vụ Quang, Hương Khê, Hà Tĩnh
Phan Đình Phùng quyết định dấy binh
Ruột thắt bởi xót dân tình
Vì thương đất nước bồng bềnh , long đong!
Vùng Linh Giang có ông Lê Trực
Xây pháo đài , dốc sức phò vua
Cùng Đinh Nho Hạnh thi đua
Đứng lên khởi nghĩa phất cờ chống ngăn!
5. Con đường gian khổ
Ổn định xong Ấu Sơn lực lượng
Thuyết lên đường cầu cứu nước Tàu
Dặn dò Đạm , Thiệp rất lâu
Phò vua, hộ giá, cho dù nát thân!
Mây Trường Sơn quây quần núi đá
Trời biên cương gió lạ rùn vai,
Đắng cay gian khổ đủ đầy
Đói ăn măng trúc, khát vài giọt sương!
Theo lý tưởng , dặm trường khổ nhục
Vung Long Tuyền mở cuộc tồn sinh,
Núi cao đồi trọc lênh khênh,
Nhạt nhoà cửa khuyết, sầu tênh khe nguồn!
Hịch Cần Vương muôn lòng xao xuyến
Khi thánh vương lên tiếng cứu nguy
Giữa lúc tổ quốc suy vi
Nhà tan cửa nát còn chi đá vàng?
Bao sĩ phu âm thầm nối gót
Hẹn nhau về xum họp bên vua
Mõ dồn, canh thả, trống khua
Cơm đùm gạo bới, đệ chờ đợi huynh!
Hơi đá rịn, lềnh phềnh khó chịu,
Gió Lào reo, líu ríu da khô,
Nắm tay! quyết dựng cơ đồ!
Đèo cao, truông rộng, thẫn thờ dáng chim!
Dẫu rằng trước, anh em gục chết,
Dẫu phía sau giặc bít lối về,
Nách ghì khẩu súng lạnh tê,
Níu chân đồng đội bò lê qua đồi!
Thằng Tây cũng lui cui, e ngại,
Tên Việt gian hớt hải dông ngay!
Máu em tưới tẩm rừng cây,
Máu anh đem bón tương lai tươi hồng!
Áo trấn phủ phiêu bồng tám hướng,
Nụ cười giòn, ngất ngưởng cắt râu,
Chinh nhân vung kiếm ngang đầu,
Hận quân cướp nước dãi dầu tháng năm!
Vượn lạc bầy, bần thần giọng hú,
Xuyên màn đêm giữa rú …ai nghe?
Muỗi rừng hoà tấu vo ve,
Vắt mòng kè vực ngo ngoe cắn quàng!
Vua cũng chịu thăng trầm hia mão
Cũng đói cơm ,thiếu áo, thiếu mền…
Gian nan trốn tránh ghe phen
Giặc Tây thắt chặt gọng kềm không nương!
Bên cạnh vua có Trương Quang Ngọc
Gốc người Mường, rất mực trung trinh
Bao phen liều chết hi sinh
Vì vua quên bản thân mình tồn vong
Đánh Cửa Khe, giặc tung toàn lực
Với ý đồ bắt sống nhà vua
Họ Trương mưu lược chẳng vừa
Cùng Tôn Thất Thiệp vượt qua bẫy ngầm
Rồi đưa Vua thoát thân lội suối
Về ẩn nấp tại núi Ma Rai
Vua tôi hạt muối cắn hai
Nhường cơm xẻ áo, vơi đầy thánh ân!
Vua giữ vững tinh thần kháng giặc
Làm ngọn cờ hiển phách phất cao
Vua là lãnh tụ phong trào
Vừa là điểm tựa, cho bao tâm hồn!
Vua thà chết, còn hơn sống nhục
Quyết mang về độc lập, tự do
Tham chi đế vị hồ đồ
Ngàn thu bia miệng trơ trơ vẫn còn!
Bọn giặc Pháp biết lòng dân vẫn
Luôn cưu mang hình ảnh Hàm Nghi
Khâm Sứ Huế là De Courcy
Vạch ra chiến lược ly kỳ lập công
Một mặt đưa Chánh Mông tức vị
Để sớm mau bình trị nhân tâm,
Đồng Khánh khẩn cấp đăng quang,
Ông vua sân khấu nước Nam bấy giờ!
Nhân sỹ Huế làm thơ mai mỉa
Nôm na, mà ý nghĩa thâm sâu
“Ngẫm xem thế sự mà rầu
Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi!”
6. – Vua Hàm Nghi bị bắt.
Gởi văn thư, De Courcy doạ dẫm
Mong nhà vua hãy sớm quy hoàng
May còn chễm chệ ngai vàng
Phủ phê lợi lộc, đàng hoàng quyền uy!
Vua Hàm Nghi kiên trì phản đối
Thề nhất tâm đeo đuổi con đường
Chông gai vực thẳm tai ương
Chỉ ghe tiêng gọi cương thường, nghĩa nhân!
De Courcy tần ngần lui bước
Đặt bày ra chiến lược khoan dung
Đem vàng mua chuộc tuỳ tùng
Khiến người đổi dạ thay lòng phản vua!
Trương Ngọc Quang mắc mưu chiêu dụ
Chiến chinh hoài, cực khổ quá nhiều
Ruột mềm, chí mỏng dễ xiêu
Thấy vàng tối mắt, làm liều thử coi !
Họ Trương lại đua đòi thuốc phiện,
Thiếu “tiên nâu” chết lịm thân tâm,
Quan Tây dụ dỗ dần dần
Cuối cùng Trương phải dạ vâng chấp hành !
Phương án là: nhẹ nhàng phản kích
Phải dò la tung tích nhà vua
Bủa giăng, chờ đợi thời cơ
Khiến Tôn Thất Thiệp bất ngờ bó tay !
Biết nhà vua thường hay lẩn khuất
Nơi rừng sâu, bí mật, xa xôi
Họ Trương bám sát không rời
Dẫn bầy ưng khuyển dáo dài vây quanh
Đêm hôm ấy, rừng xanh êm ả,
Trương dẫn bầy bộ hạ ẩn thân,
Vua đang an giấc dưỡng thần,
Có Tôn Thất Thiệp đứng canh bên hè…
Cảm thấy biến, Thiệp nghe tiếng động,
Hươi kiếm lên, phản ứng liền tay,
Bọn Mường ném ngọn dáo ngay,
Xuyên qua ngực Thiệp, chết ngay hiện trường!
Vua tỉnh dậy, cầm gươm định thoát,
Thấy họ Trương nét mặt chẳng lành,
Vua liền hiểu rõ ngọn ngành,
Tiểu nhân đắc thế, hoá thành kẻ gian …
Vua trao gươm, dịu dàng khẽ thốt :
“ Hãy giết ta, chớ nộp cho Tây !”
Lá cờ kháng chiến mảnh mai
Cuồng phong xô gãy cho ngày tối đen !
Tôn Thất Đạm nhận tin rất dữ
Vua Hàm Nghi bị nhử vô tròng
Thôi rồi đã hết trông mông
Đạm liền tự vẫn, vẹn toàn chữ trung !
7. - Giặc pháp dụ hàng
Bọn quan Tây ung dung thủ lễ
Tiếp đón vua trọng thể, ân cần
Xuống thuyền, vua vẫn lặng câm
Đối đầu cái chết kiên gan vô cùng !
Bốn năm sống trong rừng cô quạnh,
Thiếu thuốc men, nóng lạnh thất thường
Nhà vua chí tựa kim cương,
Trau giồi khí tiết, lập trường không phai !
De Courcy mãi sai người dụ dỗ
Bậc anh hùng trót lỡ sa cơ
Đành xin được chết dưới cờ
Nửa đường đứt gánh, cơ đồ nhện giăng !
Vua ngậm miệng khăng khăng câm nín
Lấy áo the phủ kín mặt mình
Luôn luôn từ chối, thản nhiên :
“Ta là một kẻ dân đinh làng nhàng !”
De Courcy hoang mang, bỡ ngỡ
Y chưa hề gặp gỡ nhà vua
Bọn Tây bối rối sững sờ :
Bắt nhầm một kẻ khù khờ, toi công !
Thầy của vua, là ông Nguyễn Thuận
Nghe vua về, kính cẩn đến thăm
Thầy trò xa cách nhiều năm
Bỗng vua đứng dậy chăm chăm vái chào !
De Courcy nhìn vào đôi mắt
Ngời tinh anh, rực ánh lửa trời
Cuối cùng y đoán không sai :
Hàm Nghi hoàng đế là người này đây !
Vua chấp nhận lưu đày hải ngoại
Không cần ai chào hỏi, viếng thăm
Thân tù, nước mất, nhà tan
Dám đâu nghĩ đến mẹ, anh, em mình !
Vua ngậm ngùi, làm thinh một vẻ,
Ngồi trên thuyền, lặng lẽ trầm tư
Giặc Tây uỷ lạo dây dưa,
Nhưng ngài quyết liệt chối từ vinh hoa .
Máu đã đổ nhạt nhoà xứ sở
Mồ hôi tràn ngập ứ quê hương
Người dân rên xiết đoạn trường
Vua lâm tuyệt lộ không đường tới lui !
Thôi cũng đành hên xui số phận,
Mặc trời cao tẩn mẩn trêu người !
Nên chăng là sự đã rồi ?
Không thành công cũng thành người Việt Nam !
8. Những năm tháng lưu đày
Thuyền nhã khói màu lam, tách bến !
Kẻ lưu đày quyến luyến trông theo,
Ra đi là sự đã liều
Mưa mai không biết, nắng chiều nỏ hay !
Chẳng vợ con đong đầy nước mắt
Không mẹ già ruột thắt từng cơn
Bồng bềnh mây trắng rưng rưng
Ngàn năm vương vấn núi rừng Ấu Sơn !
Ba vạn sáu, trần gian hữu hạn,
Mong quê nhà xán lạn cờ bay
Vong quốc là kiếp đoạ đày
Nguyện cầu dân tộc vạn ngời ánh sao !
Ngày trăn trở dàu dàu nhớ nước
Đêm bơ thờ, thảng thốt chiêm bao
Chiều chiều ra vịn boong tàu
Ngó về cố xứ ruột đau chín chiều !
Chim lạc bầy, liệng vèo trên sóng
Kẻ lưu đày lóng ngóng băn khoăn
Ta còn để lại gì chăng ?
Rừng xanh còn đọng dấu chân anh hùng !
Thuyền lướt nhanh chập chùng sóng bạc
Chẳng bao lâu cập cảng Alger
Xứ Algérie ngái ngút xa xề,
Quan tâm chi mấy bên tê, bên này ?
Bắt đầu những chuỗi ngày vong quốc
Cố vùi chôn thao thức, u hoài
Quân vương mười chín tuổi đời
Vươn vai, ưỡn ngực như người thanh niên !
Hãy dẫm đạp ưu phiền, nghich cảnh
Hãy rùng mình vỗ cánh đằng vân
Nên làm một kiếp đại bằng
Hay làm dế trũi làng nhang rong chơi ?
Đời nhà vua tuyệt vời hết sức
Ở lồng son bức ngặt mà vui
Chẳng trách số phận một lời
Cũng không hậm hực đất trời bỏ rơi !
Giữu phong cách của người dân Việt
Và phô bày khí tiết đế Vương
Luôn luôn khiêm tốn, nhún nhường
Nhưng không để bị coi thường, khinh khi !
Viên toàn quyền Alger lịch sự
Đưa Ngài về biệt thự Rừng thông
Rồi Ngài phải học Pháp văn,
Tri thức, phong tục để làm công dân
Băm ba tuổi, cô thân, lẻ mộng
Lập gia đình để sống bình thường
Đầu lòng hai bậc công nương
Như Mai, Như Lý dễ thương, diễm kiều,
Ông Hoàng Minh Đức tiếp theo
Tài năng, tư cách đủ điều, kém ai ?
9. Di hài trôi nổi
Năm nhà vua bảy hai tuổi thọ (1944)
Mãn phước phần, tận số, băng hà
Chặng đường vong quốc trải qua
Hàm Nghi chẳng thẹn là vua nước mình !
Hài cốt ngài lênh đênh trôi nổi
Từ Alger qua Pháp – lang – sa
Vượt Dordogne, tới cánh rừng già
Nghĩa trang Thonac vật vờ lạnh căm !
Ngài nằm đó, tuyết sương tơi tả
Chẳng hoa thơm, bia đá, trầm hương
Đơn sơ và rất khiêm nhường
Cúi nhìn lăng mộ đế vương , ngỡ ngàng !
Dòng chữ nhỏ, tồi tàn, xấu tệ :
Vua Hàm Nghi, hoàng đế An Nam
Năm sinh, năm mất rõ ràng
Chẳng ghi tiểu sử, đôi hàng văn chương !
Sống : kháng chiến khô xương, cạn tủy
Thác : di hài quạnh quẽ, tối tăm
Hay chăng có cõi vĩnh hằng
Chút tình thương nhớ, xin dâng một vài…
10. Đức vua và mái trường xưa
Tôi về thăm trường Hàm Nghi một bận
Bảng tên trường, nay biến mất không còn !
Những gốc bàng ủ dột, đứng lom khom
Như tiếc nuối một thời quá vãng !
Đâu bóng dáng Cô Thầy,
và tiếng reo bè bạn ?
Mái ngói Di Luân Đường nhợt nhạt rêu phong…
Lớp học tôi : nhện phủ kín căn phòng
Tôi đứng lặng, chờ tiếng xưa vọng lại !
Tôi ngồi đây, đợi niềm tin rực cháy !
Đây Hàm Nghi !
Trường tôi. Lớp tôi. Cội nguồn dịu ngọt của tôi !
Ôi mái ấm nhỏ nhoi,
Trong lòng tổ quốc Việt Nam bao la, bát ngát,
Tri ân Cô Thầy, đã từng làm bóng mát
Trao cho con những hiểu biết đầu đời
Khiến chúng con chèo chống vững tay bơi
Khi cuộc sống là dòng sông ghềnh thác,
Dạy trui rèn nhân cách trong thử thách
Mặc cho ai sống danh lợi khóc cười,
Ai quay cuồng trong vật dục tanh hôi
Hãy trưởng thành như con người chân thật !
Nhớ bằng hữu trao niềm vui mộc mạc
Lượm trái bàng đập lấy hạt ăn ngon !
Quả mù u làm đạn bắn rất giòn
Giờ ra chơi cùng nhau ôn bài học
Đến trường sớm rủ đánh bi, giỡn cợt,
Rồi xếp hàng nghiêm chỉnh để chào cờ
Cả sân trường vang dội tiếng quốc ca,
Thầy hiệu trưởng ban đôi lời giáo huấn…
Cô chỉ dạy, luôn cúi đầu tuỳ thuận,
Thầy khuyên răn, đều cố gắng vâng lời,
Tuy tinh nghịch và lắm lúc ham chơi
Vẫn thực hành câu : “Tôn sư trọng đạo “
Giờ âm nhạc, nhìn học sinh đứng ngồi bát nháo,
Thầy Văn Giảng bắt nhịp giọng như loa :
“ Ta là học sinh Hàm Nghi tươi như hoa “
Kể sao xiết,
chao ôi,
thương biết mấy …. !
Suốt bốn năm làm học trò dạo ấy,
Từ giã trường khi tóc hãy xanh màu
Qua bao nhiêu con nước chảy dưới cầu
Vẫn không quên mái trường xưa yêu dấu !
Nôi an lành cho kiếp người ngủ đậu
Bến trong veo của một thủa thanh bình,
Kho tri thức xây vững cuộc nhân sinh
Mà Cô, Thầy…là bà Tiên, ông Bụt,
Đưa học trò tới chân trời hun hút…
Tràn hương hoa đạo lý của Đông phương
Dù hạnh phúc với vật giá, tiền lương,
Vẫn trau dồi tâm linh là nền tảng :
Yêu nước, thương nòi,
kính thầy, mến bạn,
Mãi ngoi lên giữa cuộc lữ vô thường
Luôn tìm về với nguồn cội quê hương
Chẳng lãng quên mái trường xưa, bạn cũ…
Phần kết : Hàm Nghi và bài ca giữ nước
Việt Nam là bài ca giữ nước
Hàm Nghi là nền nhạc bi hùng
Qua bao biến chuyển phù vân
Dè đâu âm hưởng rền vang địa cầu
Việt Nam là ca dao mượt óng
Hàm Nghi là cảm hứng văn chương
Điệu hò ngọt lịm như đường
Lời thơ như chuối bà hương dịu dàng
Việt nam là những trang sách mở
Hàn Nghi là câu chữ uy nghiêm
Tuyên dương bao bậc đại hiền
Trao truyền nguyên khí thiêng liêng cho người
Việt Nam là mộng đời bất tuyệt
Hàm Nghi là thắm thiết cuộc say
Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa lừng !
Việt Nam là tưng bừng ngày hội
Hàm Nghi là chói lọi rằm trăng
Trống đồng Ngọc Lũ còn ngân
Hát xoan, quan họ níu chân nàng Kiều !
Việt Nam là ngọn triều dậy sóng
Hàm Nghi là nước lớn thuyền lên
Dù cho vận hội ngã nghiêng
Buồm căng để lái, càng thêm reo mừng !
Việt Nam là một rừng cờ đỏ
Hàm Nghi là ngọn gió tung cao
Hồn ta đậm đặc máu đào
Mong sao điểm xuyết sắc màu tự do !
Việt nam là con đò viễn mộng
Hàm Nghi là chèo chống, mái dầm
Luôn luôn sát cánh nhân dân
Cây đa rủ nhánh sẵn sàng đón ai !
Việt Nam là pháo đài ngăn giặc
Hàm Nghi là chông sắc, hào sâu
Mặc ai rút ván thay cầu
Thân cau khẽ dỡ, dây trầu nhẹ nương !
Việt Nam là con đường thăm thẳm
Hàm Nghi là bóng mát chở che
Em về bên nớ, bên tê ?
Có anh cầm lọng, sơn khê vẫn gần !
Việt Nam là đoàn quân không mỏi
Hàm Nghi là bộ đội tiền phương
Là thiên lý mã dầm sương,
Hoa ban nở trắng chiến trường năm xưa !
* * *
Giọt đắng nghẹn, thẫn thờ trang giấy,
Chắc đêm nay mộng thấy tiền nhân,
Dẫu ngăn cảm xúc dâng tràn,
Dè đâu nước mắt rưng rưng …rụng đầy !
Ai về góp một bàn tay
Cung nghi linh vị, di hài đức vua
Ngôi trường hiện giữa ước mơ
Hàm Nghi : danh ấy còn lưa muôn đời…
Âm thầm trong cõi xa xôi
Thoáng nghe tiếng gọi của ngài đâu đây
* * * * *