Hồi ức Hương Giang - Bút ký của Lê Quang Kết.
Bút ký
HỒI ỨC HƯƠNG GIANG
Lê Quang Kết
Tôi đã lớn lên bên dòng sông ấy tới tuổi lập thân rồi bỏ sông mà đi. Người ta bảo: tên sông Hồng gọi theo sắc màu, tên Cửu Long gọi theo dáng hình còn sông Hương thì gọi theo mùi hương… Mùi hương lạ lùng ấy ai xa rồi dạ bồn chồn xao xuyến khôn nguôi.Vậy mà riêng tôi đã biền biệt bỏ Huế, bỏ con sông quê dễ mấy chục năm trời…
Sông Hương có tự bao giờ? Sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết năm 1435 gọi là sông Linh, “Ô Châu cận lục” do Dương Văn An nhuận sắc năm 1555 gọi là Kim Trà đại giang, có tài liệu cho biết sông Hương còn có tên Lô Dung, sông Dinh hay Yên Lục; có lúc sông Hương lại mang tên Hương Trà… Và con sông thơ mộng, dịu dàng- ngạt ngào huyền thoại ấy đã thành nỗi đam mê kim cổ cho tao nhân mặc khách- không tiếc ngôn từ tụng ca. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết thành bút ký Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông - với mỹ cảm tuyệt vời của một tâm hồn Huế uyên áo. Sách vở đã dựng Hương giang thành tượng đài nghệ thuật cùng bao nỗi lo âu về một vẻ đẹp mong manh đang dễ bị phá vỡ.
Nhiều người thích câu thơ cố thi sĩ Bùi Giáng- chỉ cặp câu lục bát mà khái quát cả xứ Huế mộng mơ “Dạ thưa xứ Huế bây giờ / Vẫn là núi Ngự bên bờ sông Hương”. Hương giang - con sông thần thái của Huế- con sông trong tâm tưởng của bao người của tôi. Nhà tôi chỉ cách sông một quãng ngắn, qua khỏi cửa Ngăn là tới bến đò Thừa Phủ một thời cắp sách. Những cô nữ sinh Đồng Khánh duyên dáng trắng tinh mỗi bận qua đò. Những ngày cuối xuân đầu hạ khi mặt nước lặng lờ nhìn đò rời bến lấp loáng cơ man không biết bao chiếc nón bài thơ dịu ngọt - không biết bao tà áo dài thướt tha trong bóng nước. Lạ thật! Cực chẳng đã mà phải qua Tràng Tiền thôi còn bước lên đò sang sông là nét duyên thơ của tâm hồn Huế. Hình như sông đò ấy đã ươm hạt giống văn chương cho mỗi người Huế dù cho chỉ là bước trắc trở gian truân. Có người thơ Huế đã ra đi - Phương xích lô, một phu xe trần trụi nặng nợ áo cơm và nỗi cô đơn cùng tận đã hốt nhiên cùng với sông: “Vắng khách đôi khi về chở gió/ Không tiền, không bạc vẫn cười vang/ Dừng lại bên cầu nghe nước chảy/ Chợt thấy mình: một giọt nước Hương Giang”. Phương ơi! Những ngày bé dại bên sông Phương đã nói tới sự linh nghiệm cùng những ẩn ngữ ẩn ức trong cuộc đời - rồi ra tất cả chỉ là bóng mờ giữa cõi đời phiền lụy. Điều cuối cùng còn lại đó là người sông Hương vẫn yêu quý Phương vẫn nhớ dòng sông thơ “ Chở gió”- chỉ thế thôi là đủ, phải không Phương?
Ngày ấy lũ chúng tôi tắm sông vào dịp nghỉ hè. Chiều tới thả mình trên dòng nước lắng nghe tiếng sông rì rào. Bên kia Đập đá có tiếng vỗ nhẹ của ghe câu cào hến. Những con người cần mẫn lạ lùng lặn hụp bên sông cực nhọc kiếm sống. Những lưng trần rám nắng bám riết đáy sông cả một đời. Tôi đã gặp một người như thế- chú Thôi. Sinh ra lớn lên trên sông nước vạn đò, chú chọn nghề xúc hến mưu sinh.Vợ chú thức dậy từ sáng tinh mơ thổi một nồi xôi to tướng- bắt chú Thôi ăn một hơi mấy đọi xôi uống một nghỉn mấy đọi chè Truồi, người nhẹ tênh như phao nhấn chẳng chìm- phải no nê mới trụ nổi với sông nước, mải miết theo sông từ sớm đến chiều tà mới đủ gạo cho sáu miệng ăn. Bây giờ cơm hến- người ta gọi nó là văn hóa ẩm thực, văn hóa vật thể của Huế của nhân loại còn chú Thôi tôi đã bị dòng Hương cuốn trôi từ dạo ấy - trận lụt lịch sử năm 1989. Chú Thôi ơi, tôi cũng thế phải ra đi bôn ba tha phương với bao chồng chất lẫn lộn- chẳng biết bây giờ thím và các cháu ra sao? Đã kịp lên định cư nơi vùng Xuân Hòa đất mới hay còn lênh đênh mạn thuyền sớm trưa cào hến nuôi thân nuôi con, cháu nào đã có thể thay cha đảm đương cái nghề nhọc nhằn khổ ải ấy? Hến cồn có còn hương vị ngày trước không ?
Mười năm gió bụi (Thập tải phong trần khứ quốc xa)- thân già bệnh tật, không bè bạn, ở nơi xa vắng; thi hào Nguyễn Du cũng đã sống tháng ngày vất vưởng cực nhọc với bao đè nặng lo âu. Và ông quan lạnh kia vào nhậm chức Đại học sĩ chốn kinh thành hoa lệ - nhìn sông nước lững lờ đã phải thốt lên “ Hương giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu” ( Sông Hương một mảnh trăng/ Xưa nay đã gợi nên bao nỗi sầu). Đã có lần tôi trở về bên sông. Tìm kiếm bước chân của những ngày tháng cũ. Dòng sông xưa vẫn âm thầm lặng lẽ. Bao thanh âm quen thuộc của đêm sông Hương một thuở hiện về. Phía cồn Giã Viên có chiếc đèn câu le lói. Lặng lẽ ngư phủ dầm chèo yên ả. Lặng lẽ mưu sinh. Đêm nay trăng tỏ. Mặt sông như những hạt cườm rơi vãi lấp lánh đủ sắc màu. Văng vẳng xa đưa một giọng hò não nề thương nhớ: “ Chiều chiều trước bến Vân Lâu/ Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm/ Ai thương ai cảm ai nhớ ai mong/ Thuyền ai thấp thoáng bên sông/ Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non”. Ngày xưa thuyền câu nơi bến sông này, ông vua yêu nước Duy Tân đã hẹn hò với hai chí sĩ Trần Cao Vân và Thái Phiên để hoạch định con đường đánh Pháp. Công việc bại lộ, nhà vua bị đày biệt xứ còn các chí sĩ phải chịu án tử hình. Câu mái đẩy trên dòng Hương đã ngót trăm năm nghe ra vẫn da diết, ngậm ngùi…
Sông Hương nặng tình với mưa Huế. Mưa Huế… mưa mãi mưa hoài dài từ tháng chín cho tới giêng hai. Mưa ngày mưa đêm mưa rả rích mưa thâm căn cố đế. Mưa …tình- hình như nghe trong mưa có đủ: giọt thương giọt nhớ, giọt nhẹ nhàng, giọt sâu lắng, giọt giận hờn, giọt đức hạnh thủy chung; giọt như tiếng dạ thưa ngọt lịm. Mưa Huế là phần sâu lắng nhất của tâm hồn Huế. Hương giang trong mưa lặng lờ, trầm mặc. Tìm trong mưa lời thì thầm của sóng nước. Những bọt nước vỡ tung trên mặt sông gợi bao nỗi niềm thiếu nữ. Con gái Huế lạnh như băng nhưng thâm trầm như biển sâu. Làm quen tán tỉnh một cô nàng Huế khó thật khó nhưng đã yêu ai thì yêu cả một đời. Có khi tình yêu chỉ là một thoáng bâng quơ nhưng để lại vết thương lòng không dễ gì quên; có khi chưa kịp cầm tay nụ hôn đầu đời thì chàng phải ra đi theo bước công danh nhưng nàng vườn xưa chốn cũ vẫn cứ mỏi mòn chờ đợi…
Có khi sông Hương hiền hòa bỗng trở nên dữ dằn trong cơn cuồng nộ- đó là những trận lụt bất thường xứ Huế. Nước băng băng xối xả như cuốn phăng tất cả về cửa biển Thuận An. Những ngày ấy màu sông đục ngầu, réo rắc giai điệu bi thương lời buồn nức nở.
Cảm ơn nhà soạn tuồng Đào Tấn, ông không là người xứ Huế mà cảm được mùi hương của dòng Hương: “Cộng ẩm Hương giang thủy/ Vô nhân thức thủy hương” (Cùng uống nước sông Hương/ Không có mấy người cảm đuợc cái mùi thơm của nước). Còn tôi đã chừng ấy năm xa quê xa sông, tôi như nợ nần. Sông ơi, Hương giang của tôi ơi! Món nợ tình sông cứ vay hoài vay hoài… Lần lữa…lần lữa… trả mà có bao giờ trả được đâu.